Liên kết web
Số lượt truy cập

43

2034927

Chi tiết tạp chíSố 1 - 2022

Thực trạng hỗ trợ phụ nữ di cư trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Tác giả: Phan Thị Thu Hà

Trang: 104-114

Dựa trên số liệu khảo sát của Đề tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện năm 2021 tại 8 tỉnh/thành của Việt Nam, bài viết phân tích thực trạng hỗ trợ phụ nữ di cư trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở hai khía cạnh hỗ trợ phụ nữ di cư tiếp cận các kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống, nghề nghiệp và hỗ trợ con của phụ nữ di cư tiếp cận giáo dục. Kết quả phân tích cho thấy, các cơ quan, tổ chức đoàn thể đã có những hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho phụ nữ di cư nhưng sự tham gia của họ còn ít. Hội Phụ nữ đã thể hiện được vai trò nổi bật so với các tổ chức đoàn thể khác trong việc hỗ trợ phụ nữ di cư nâng cao kiến thức, kỹ năng qua các hoạt động tuyên truyền, tập huấn. Bên cạnh đó, trẻ em trong các gia đình di cư chủ yếu theo học tại các trường công lập, nhưng tỷ lệ này vẫn còn thấp. Học phí và các khoản đóng góp quá cao, không có tiền đầu tư cho con học và khó khăn trong thủ tục liên quan đến hộ khẩu, nơi tạm trú để xin học là hai khó khăn đáng chú ý của một bộ phận phụ nữ di cư.

Thực trạng bảo vệ, hỗ trợ phụ nữ di cư trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe và các yếu tố ảnh hưởng - Một số đề xuất, khuyến nghị

Tác giả: Lê Hồng Việt

Trang: 128-139

Đối với phụ nữ di cư, việc được tiếp cận với các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe là vô cùng quan trọng. Bài viết phân tích thực trạng bảo vệ và hỗ trợ y tế và chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ di cư thông qua các dữ liệu khảo sát 755 phụ nữ di cư tại 5 tỉnh/thành phố gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Đắk Lắk. Dữ liệu khảo sát cho thấy phụ nữ di cư đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhất là việc cấp và sử dụng bảo hiểm y tế tại nơi đến, nhiều chị em do chủ quan về tình hình sức khỏe, cũng như do thủ tục và các yếu tố khác đã khiến việc hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ di cư còn có nhiều hạn chế.

Các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi

Tác giả: Cao Thị Hồng Minh

Trang: 115-127

Phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi là công tác quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Bài viết sử dụng phương pháp phân tích tài liệu gồm các văn bản, quy định của Nhà nước, các báo cáo nghiên cứu) liên quan đến công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, đặc điểm chung của đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi là những người có nhận thức về pháp luật rất hạn chế và tâm lý chung của người dân đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi là họ thường coi trọng luật tục của dân tộc mình nhiều hơn. Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số cũng cần chú ý tới một số đặc thù như là vai trò của những cá nhân có uy tín và tiếng nói trong dòng họ, trong buôn làng cũng như tồn tại sự bất bình đẳng giới trong giáo dục, phụ nữ vẫn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi, hạn chế hơn so với nam giới. Đây là những đặc thù cần lưu ý trong quá trình triển khai các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm đạt được hiệu quả thiết thực nhất.

Phụ nữ di cư trong lĩnh vực kinh tế - lao động - việc làm

Tác giả: Hà Thị Thúy, Trần Thị Diệu Nga, Lê Kim Anh

Trang: 94-103

Phụ nữ di cư có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, họ đã có những đóng góp không nhỏ để cải thiện kinh tế gia đình. Đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và khó tiếp cận với các chính sách về an sinh xã hội. Bài viết này được khai thác từ số liệu khảo sát định lượng Đề tài độc lập cấp Quốc gia do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện năm 2021 ở 5 tỉnh/thành phố với số lượng phụ nữ di cư là 755 người. Những phát hiện chính cho thấy phụ nữ di cư làm ở nhiều ngành nghề khác nhau và chủ yếu làm các công việc chân tay hoặc không đòi hỏi trình độ chuyên môn; công việc không ổn định, thu nhập thấp hơn khi bị ảnh hưởng Covid-19. Bài viết cũng cho thấy trong bối cảnh hiện nay phụ nữ di cư gặp nhiều khó khăn tuy nhiên sự hỗ trợ đối với họ trong lĩnh vực kinh tế - lao động - việc làm là không đáng kể.

Cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ tại Hà Nội để nâng cao chất lượng cuộc sống của hộ gia đình nhìn từ góc độ chính sách

Tác giả: Nguyễn Văn Luyến

Trang: 84-93

Các chung cư cũ (thường gọi là nhà tập thể) tại Hà Nội được xây từ những năm 60, 70 của thế kỷ 20 đến nay đã xuống cấp ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người dân và các hộ gia đình đang sinh sống trong những khu chung cư này. Trong thời gian quan, các cơ quan Trung ương tới Thành phố Hà Nội đã tìm nhiều biện pháp tháo gỡ trong việc cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ, song đến nay việc triển khai chưa thực sự hiệu quả. Nguyên nhân có nhiều, trong đó có chính sách từ phía Nhà nước. Bài viết phân tích thực trạng cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ tại Hà Nội từ góc độ chính sách với mong muốn đưa ra một số gợi mở về chính sách để thúc đẩy quá trình triển khai cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ trên địa bàn Thành phố Hà Nội từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.

Thực trạng tiếp cận các tiện ích văn hóa, thể thao và du lịch của phụ nữ cao tuổi

Tác giả: Trần Thị Hồng

Trang: 71-83

Theo quy định pháp luật, người cao tuổi (NCT) có quyền được tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao, giải trí, du lịch. Bài viết tập trung tìm hiểu thực trạng phụ nữ cao tuổi tiếp cận với các tiện ích về văn hóa thể thao và du lịch ở địa phương và những yếu tố ảnh hưởng tới khả năng và cơ hội tiếp cận (các tiện ích gồm có thư viện, câu lạc bộ tự nguyện sân chơi cộng đồng, khu tập thể dục công cộng, các giải thi đấu thể thao dành riêng cho NCT, các hoạt động du lịch phù hợp với NCT). Bài viết sử dụng số liệu khảo sát định lượng và định tính của Đề tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện năm 2021. Mẫu phân tích là 792 người cao tuổi nữ (độ tuổi từ 60 trở lên) tại 5 tỉnh, thành phố, gồm Lào Cai, Quảng Ninh, Quảng Trị, Thành phố Hồ Chí Minh và Trà Vinh. Kết quả cho thấy, việc có các nguồn lực tốt hơn về học vấn, kiến thức, sức khỏe, quỹ thời gian giúp nữ cao tuổi tiếp cận và sử dụng các tiện ích nhiều hơn. Việc thúc đẩy khả năng tiếp cận, sự tham gia của nhóm có trình độ học vấn thấp hơn, nhóm có sức khỏe kém hơn cũng như nhóm đang tiếp tục làm việc (làm việc tạo thu nhập hoặc làm các công việc nội trợ, chăm sóc trong gia đình) cần được chú ý trong giai đoạn tới. Để đạt được điều đó, cần có sự đa dạng cả về hình thức, nội dung, cách thức hoạt động cũng như sự mở rộng về quy mô, sự đảm bảo về chất lượng của các tiện ích trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch đối với người cao tuổi nữ.

Sự tham gia của phụ nữ cao tuổi trong các hoạt động tập huấn, giáo dục và đào tạo

Tác giả: Trịnh Thái Quang

Trang: 58-70

Một trong những đặc điểm của quá trình già hóa dân số ở Việt Nam là phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn trong tổng số người cao tuổi ở những độ tuổi cao hơn. Điều này đặt ra nhiều vấn đề về bảo vệ, chăm sóc và hỗ trợ đối với nhóm người cao tuổi này. Bài viết này tập trung vào hoạt động hỗ trợ phụ nữ cao tuổi trong hoạt động tập huấn, giáo dục và đào tạo tại địa phương. Bài viết sử dụng số liệu của Đề tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ trì thực hiện năm 2021. Mẫu nghiên cứu gồm 792 phụ nữ cao tuổi ở 5 tỉnh/thành: Lào Cai, Quảng Ninh, Quảng Trị, thành phố Hồ Chí Minh và Trà Vinh. Kết quả cho thấy tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động này không cao và khác nhau theo độ tuổi, khu vực cư trú, tình trạng sức khỏe, tình trạng học vấn, dân tộc và tôn giáo, và việc họ có là thành viên của các hội/nhóm/tổ chức đoàn thể hay không. Các yếu tố tác động đến sự tham gia của phụ nữ cao tuổi bao gồm sức khỏe, nghề nghiệp và việc họ có phải là thành viên của các hội/nhóm/tổ chức đoàn thể hay không. Kết quả nghiên cứu gợi ý một số các khuyến nghị về việc thực hiện các chương trình tập huấn, giáo dục và đào tạo hiệu quả hơn nhằm phát huy hơn nữa vai trò của người cao tuổi nói chung và phụ nữ cao tuổi nói riêng.

Phụ nữ cao tuổi ở Việt Nam trong lĩnh vực chính trị và các hoạt động cộng đồng

Tác giả: Lỗ Việt Phương

Trang: 45-57

Người cao tuổi nói chung và nữ cao tuổi nói riêng vẫn luôn khẳng định vai trò quan trọng trong các hoạt động chính trị và cộng đồng ở địa phương. Hai nhóm tổ chức chính trị xã hội nữ cao tuổi tham gia nhiều nhất là Hội NCT và Hội Phụ nữ, cũng là hai tổ chức chính trị đặc thù dành cho nữ cao tuổi. Bài viết tập trung tìm hiểu các yếu tố tác động đến vai trò của phụ nữ cao tuổi trong các hoạt động chính trị, cộng đồng và các hoạt động hỗ trợ, bảo vệ cho phụ nữ cao tuổi trong lĩnh vực này trên cơ sở phân tích số liệu điều tra của Đề tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện khảo sát năm 2021 tại 8 tỉnh/ thành với số mẫu là 792 người cao tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại các địa phương, phụ nữ cao tuổi tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng trong việc tham gia các tổ chức chính trị xã hội và đoàn thể thông qua vị trí là thành viên và giữ các vị trí lãnh đạo. Bên cạnh đó, các hoạt động bảo vệ, hỗ trợ phụ nữ cao tuổi trong lĩnh vực chính trị chủ yếu thực hiện qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục và phổ biến kiến thức và khuyến khích phụ nữ cao tuổi tham gia các hoạt động do các Hội và đoàn thể tổ chức ở địa phương.

Tình trạng việc làm và kinh tế của phụ nữ cao tuổi

Tác giả: Nguyễn Hà Đông

Trang: 34-44

Già hóa dân số nhanh gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự tăng trưởng kinh tế và đặt ra nhiều thách thức to lớn đối với việc đảm bảo an sinh xã hội, đặc biệt đối với y tế, chăm sóc tuổi già, lương hưu ở Việt Nam. Do tình trạng “già trước khi giàu”, tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam tiếp tục làm việc chiếm tỷ lệ khá cao. Được xem là nhóm dân số dễ bị tổn thương hơn so với nam giới cao tuổi nhưng nghiên cứu về tình trạng kinh tế, việc làm của phụ nữ cao tuổi hiện nay còn chưa được quan tâm nhiều. Bài viết này sử dụng dữ liệu của Đề tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ cở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ và hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” để tìm hiểu về tình trạng việc làm của phụ nữ cao tuổi và điều kiện kinh tế của họ. Kết quả nghiên cứu cho thấy một bộ phận đáng kể phụ nữ cao tuổi vẫn làm việc tạo thu nhập, chủ yếu là các công việc tự sản xuất kinh doanh để duy trì sinh hoạt và độc lập kinh tế. Tuy vậy, việc duy trì sinh hoạt hàng ngày của một bộ phận không nhỏ phụ nữ cao tuổi vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Trong năm 2020, trung bình cứ năm phụ nữ cao tuổi có một người phải vay mượn để trang trải chi phí sinh hoạt.

Phát triển thị trường nhà ở cho thuê - Hàm ý chính sách nhìn từ cơ hội dành cho lao động di cư phi chính thức

Tác giả: Đào Thị Vi Phương, Dương Minh Thuận

Trang: 24-33

Từ trước đến nay, lao động di cư khu vực phi chính thức chưa được thực sự có mặt trong quy hoạch phát triển nhà ở tại các đô thị lớn. Nhóm này khó tiếp cận chính sách mua/thuê nhà ở xã hội vì không đủ điều kiện thường trú theo quy định, chưa kể giá nhà vẫn là mức “trên trời” so với mặt bằng thu nhập chung của họ. Với hình thức nhà ở đi thuê, các chính quyền đô thị hiện nay cũng thiếu các chính sách quản lý, đảm bảo cơ hội tiếp cận nhà ở an toàn với giá cả phù hợp, đáp ứng nhu cầu của lực lượng hiện đang chiếm đến 12,3% dân số đô thị. Điều này dẫn đến tình trạng gần một nửa số người di cư phải đi thuê/mượn nhà để ở, chủ yếu từ nhóm tư nhân với điều kiện sinh hoạt không đảm bảo chất lượng. Để khắc phục vấn đề này, các chính quyền đô thị cần quan tâm hơn nữa đến việc cung cấp và quản lý dịch vụ cho thuê nhà như một giải pháp để đảm bảo an sinh xã hội.

Chính sách chăm sóc y tế ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi nhìn từ góc độ hỗ trợ, bảo vệ phụ nữ

Tác giả: Lò Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Thị Thu Hiền

Trang: 13-23

Dựa trên kết quả của một số nghiên cứu sẵn có và sử dụng kết quả của Đề tài độc lập cấp Quốc gia “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp bảo vệ, hỗ trợ một số nhóm phụ nữ đặc thù” do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ trì thực hiện với tổng số 697 phụ nữ dân tộc thiểu số, bài viết phân tích tình hình chăm sóc y tế và thực trạng thi hành một số chính sách chăm sóc y tế tại vùng dân tộc thiểu số, qua đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống chính sách y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số khá toàn diện, đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và phụ nữ dân tộc thiểu số đã được hưởng đầy đủ quyền lợi theo chính sách. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, việc chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc cần quan tâm trong thời gian tới như phụ nữ dân tộc thiểu số khó tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản, việc tổ chức thực hiện chính sách y tế còn những bất cập, hạn chế.

Chế độ hưu trí bảo hiểm xã hội nhìn từ góc độ bình đẳng giới

Tác giả: Đàm Thị Vân Thoa, Nguyễn Thanh Cầm

Trang: 3-12

Tóm tắt: Bên cạnh những kết quả góp phần đảm bảo an sinh xã hội đã đạt được, việc thực hiện chế độ hưu trí bảo hiểm xã hội ở Việt Nam chưa giúp giảm khoảng cách về giới với những thiệt thòi nghiêng về lao động nữ. Để giải quyết vấn đề này cần có các giải pháp toàn diện để mở rộng diện bao phủ, giữ chân lao động nữ trong hệ thống bảo hiểm xã hội, đảm bảo hài hòa mức hưởng lương hưu phù hợp với đặc điểm, vai trò giới. Bài viết tập trung tìm hiểu một số kết quả thụ hưởng chế độ hưu trí dưới góc độ giới, phân tích nguyên nhân và đề xuất một số khuyến nghị chính sách hướng đến nhu cầu khác biệt giới nhằm đảm bảo các chính sách bảo trợ xã hội cho các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương.

Mục luc

Tác giả:

Trang: 1-2

File toàn văn đính kèm: Tải về