Liên kết web
Số lượt truy cập

34

1933328

Chi tiết tạp chíSố 1 - 2019

Hội thảo khoa học quốc gia “Lao động nữ chưa qua đào tạo - những vấn đề xã hội trong kỷ nguyên số”

Tác giả: Thanh Mai

Trang: 91-92

Trong bối cảnh lao động nữ chưa qua đào tạo ở Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực lao động việc làm, chăm sóc sức khỏe, tiếp cận an sinh xã hội và xây dựng gia đình, Hội đồng Khoa học thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội (KHXH) Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia “Lao động nữ chưa qua đào tạo - những vấn đề xã hội trong kỷ nguyên số”. Hội thảo diễn ra vào ngày 30/11/2018, tại Hà Nội, với sự tham gia của TS. Bùi Thị Hòa, Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; ThS. Đỗ Thị Thu Thảo, Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; TS. Trần Quang Tiến, Giám đốc Học viện Phụ nữ Việt Nam cùng các đồng chí lãnh đạo các đơn vị, cơ quan thuộc TW Hội LHPN Việt Nam. Về phía Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam có sự tham gia của GS.TS. Đặng Nguyên Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; TS. Đặng Xuân Thanh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; PGS.TS. Trần Thị Minh Thi, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới cùng nhiều cán bộ nghiên cứu đến từ các cơ quan, viện nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Về phía đại biểu khách mời có đông đảo đại diện các bộ, cơ quan, ban ngành, đoàn thể, viện nghiên cứu ở Hà Nội. PGS.TS. Trần Thị Minh Thi, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, đã trình bày báo cáo đề dẫn hội thảo khái quát về tình hình của lao động nữ nói chung và lao động nữ chưa qua đào tạo nói riêng ở Việt Nam. Báo cáo nhận định: “Phụ nữ chiếm một nửa dân số và đóng góp khoảng một nửa lực lượng lao động ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, lao động nữ chưa qua đào tạo chiếm một lực lượng đông đảo, là một trong những nhóm yếu thế trong thị trường lao động và mang nhiều đặc trưng nhân khẩu - xã hội bất lợi (tỷ lệ thất nghiệp cao, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp, tập trung chủ yếu nhóm nghèo, sống ở nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số, ở nhóm phụ nữ lớn tuổi, học vấn thấp)… Phụ nữ, đặc biệt là lao động nữ chưa qua đào tạo, vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn do thiếu hụt hệ thống chính sách, sự giám sát việc thực hiện các chính sách đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ trong thực tiễn, các dịch vụ hỗ trợ, các quan điểm văn hóa mang tính định kiến giới.v.v.”. Hội thảo bao gồm 23 báo cáo về các chủ đề lao động, việc làm, an sinh xã hội, đời sống hôn nhân, gia đình, những thách thức và thuận lợi của nhóm lao động nữ chưa qua đào tạo trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, được in trong kỷ yếu: Lao động nữ chưa qua đào tạo: Những vấn đề xã hội trong kỷ nguyên số (NXB Lao động, 2018). Báo cáo tham luận “Đặc điểm và một số chiều cạnh thực trạng lao động nữ không qua đào tạo” của Trần Quý Long, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đã phân tích số liệu các cuộc điều tra quốc gia, đã nêu lên thực trạng của nhóm lao động nữ không qua đào tạo và những khác biệt theo các đặc trưng cá nhân và hộ gia đình của nhóm đối tượng này. Nguyễn Tuấn Anh, Viện Nghiên cứu Thanh niên trong báo cáo tham luận “Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp, việc làm của nữ thanh niên nông dân hiện nay” đã nhận xét: Về xu hướng lựa chọn việc làm, gần 1/2 nữ thanh niên sẵn sàng làm việc trái ngành trái nghề miễn là có thu nhập cao; nữ thanh niên nông dân hiện nay còn gặp phải rất nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình làm việc, như thiếu kỹ năng nghề nghiệp, thiếu hỗ trợ tư vấn trong tìm kiếm việc làm, thiếu thông tin dự báo về việc làm trong tương lai... Báo cáo tham luận “Đời sống vật chất tinh thần và chất lượng hôn nhân gia đình của lao động nữ hoạt động trong lĩnh vực lao động giản đơn” của Hà Thị Minh Khương, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới cho thấy: So với phụ nữ qua đào tạo, phụ nữ thuộc nhóm lao động giản đơn phải sống trong điều kiện bất lợi hơn rất nhiều về điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, thu nhập và điều kiện kinh tế… TS. Đặng Xuân Thanh, Chủ trì hội thảo, nhận xét: Thiên chức gia đình và thiên chức xã hội là hai thiên chức cơ bản của người phụ nữ. Để cân bằng giữa hai thiên chức này là một vấn đề rất khó khăn. Tại Việt Nam trong nhiều năm qua vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng, Nhà nước và các ban ngành quan tâm. Chúng ta hiện nay đã có luật Bình đẳng giới và khoảng cách giới của chúng ta đang thu hẹp lại, vấn đề bất bình đẳng giới của chúng ta cũng đang được đẩy lùi. Đấy là những cái chỉ số mà không chỉ Việt Nam mà cả Quốc tế cũng đánh giá rất cao. Tuy nhiên bối cảnh mới là kỷ nguyên số đang đặt ra những thách thức mới, có những yếu tố gây mất bình đẳng, hoặc gia tăng bất bình đẳng, đặc biệt là trong vấn đề việc làm, trong vấn đề đào tạo. Nếu người phụ nữ mà đặt trọng tâm vào gia đình thì rất khó có những đổi mới về mặt xã hội. Phát biểu kết luận tại hội thảo, TS. Bùi Thị Hòa, Phó chủ tịch Hội LHPN Việt Nam nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc hợp tác nghiên cứu khoa học giữa hai cơ quan là Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và Hội LHPN Việt Nam nhằm đưa kết quả nghiên cứu khoa học vào hoạch định chính sách và thực tiễn cuộc sống. Một trong những nội dung hợp tác đó là phối hợp tổ chức nghiên cứu lý luận và tổng kết về các vấn đề liên quan đến gia đình, bình đẳng giới. Phối hợp điều tra cơ bản, khảo sát đánh giá, xây dựng cơ sở dữ liệu cho công tác bình đẳng giới. Khảo sát đánh giá các chủ trương, chính sách, mô hình, giải pháp hỗ trợ phát triển phụ nữ... Hội thảo “Lao động nữ chưa qua đào tạo - những vấn đề xã hội trong kỷ nguyên số” là cơ hội để các nhà hoạch định chính sách, quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu và thực hành xã hội cùng trao đổi về thực trạng và những đặc điểm cơ bản của lao động nữ chưa qua đào tạo hiện nay, nêu lên các thách thức chính về gia đình và xã hội, các thuận lợi và khoảng trống về chính sách. Trên cơ sở đó, các thảo luận tại Hội thảo đã gợi ra những nội dung cần quan tâm về xây dựng chính sách nhằm thúc đẩy sự tham gia hiệu quả công bằng của phụ nữ nói chung và lao động nữ chưa qua đào tạo trong kỷ nguyên số.

Lễ Công bố và Trao quyết định bổ nhiệm Quyền Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới

Tác giả: Phí Hải Nam

Trang: 89-90

Ngày 29/1/2019, tại Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức Lễ công bố và trao Quyết định bổ nhiệm PGS.TS.Trần Thị Minh Thi - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, kiêm giữ chức Quyền Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Tham dự buổi lễ có GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; PGS.TS. Phạm Minh Phúc, Phó Trưởng ban Ban Tổ chức - Cán bộ Viện Hàn Lâm và toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới. Thay mặt Thường vụ Đảng ủy và Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn đã trao quyết định về việc thôi giữ chức vụ Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới và tặng hoa chúc mừng, phát biểu ghi nhận về những thành tựu, đóng góp xuất sắc của GS.TS. Nguyễn Hữu Minh trong nhiệm kỳ vừa qua đối với sự ổn định, phát triển của Tạp chí. Chủ tịch đánh giá cao năng lực, phẩm chất và tinh thần trách nhiệm, tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, đoàn kết và hiệu quả của GS.TS. Nguyễn Hữu Minh và mong muốn trong thời gian tới, với kinh nghiệm trong chuyên môn cũng như quản lý, đồng chí sẽ tiếp tục có những đóng góp thiết thực cho Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới nói chung và Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới nói riêng về chuyên môn, đào tạo và tư vấn chính sách của ngành. Các tập thể, cá nhân trong đơn vị đã dành cho GS.TS. Nguyễn Hữu Minh những bó hoa và những lời cảm ơn, chúc mừng với nhiều tình cảm tốt đẹp nhất. GS.TS. Nguyễn Hữu Minh đã phát biểu cảm ơn những đánh giá tốt đẹp của Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, của các đồng nghiệp ở Viện và hứa sẽ phát huy các kinh nghiệm trong công tác chuyên môn và quản lý đóng góp vào hoạt động chung của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới. Tiếp đó, GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn đã trao Quyết định số 72/QĐ-KHXH ngày 15 tháng 1 năm 2019 của Chủ tịch Viện Hàn lâm về việc bổ nhiệm PGS.TS. Trần Thị Minh Thi, Nghiên cứu viên chính, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, kiêm giữ chức Quyền Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới. GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn tặng hoa chúc mừng và phát biểu giao nhiệm vụ cho Quyền Tổng biên tập. Chủ tịch tin tưởng rằng, trên cương vị mới của mình, PGS.TS. Trần Thị Minh Thi sẽ kế thừa và phát huy được truyền thống tốt đẹp của đơn vị cũng như kinh nghiệm lãnh đạo của những người đi trước, cùng với kiến thức chuyên môn sâu được đào tạo cơ bản ở trong và ngoài nước, Quyền Tổng biên tập sẽ cùng tập thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động xây dựng Tạp chí ngày càng phát triển bền vững, toàn diện, hội nhập quốc tế một cách sâu rộng. Phát biểu nhận nhiệm vụ tại buổi lễ, Quyền Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới – PGS.TS. Trần Thị Minh Thi trân trọng cảm ơn Thường vụ Đảng ủy, Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tin tưởng giao nhiệm vụ; cảm ơn tập thể cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị đã giới thiệu và tín nhiệm đồng chí giữ chức vụ Quyền Tổng biên tập. Đồng chí nhận thức sâu sắc vinh dự và trách nhiệm lớn trước lãnh đạo Viện Hàn lâm, các thế hệ đi trước cũng như của toàn thể cán bộ, viên chức đang công tác tại Viện trong bối cảnh thời cơ và thách thức đan xen trong hoạt động nghiên cứu, đào tạo và hợp tác quốc tế và hoạt động xuất bản Tạp chí theo chuẩn quốc tế. Đồng chí cam kết sẽ cùng tập thể Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới và Tạp chí nỗ lực tăng cường sự gắn kết giữa nghiên cứu cơ bản và tổng kết thực tiễn; tiếp tục phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn cao và đạo đức nghề nghiệp; chủ động thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong và ngoài nước. Bằng kinh nghiệm và khả năng của mình, đồng chí cam kết sẽ kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của Viện, của các thế hệ tiền nhiệm; vững vàng, đoàn kết, tâm huyết, tiên phong nghiên cứu sáng tạo đổi mới, cùng tập thể lãnh đạo, cán bộ công chức, viên chức và người lao động của Viện tiếp tục đưa Viện và Tạp chí phát triển. Quyền Tổng biên tập cũng mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Thường vụ Đảng ủy, Lãnh đạo Viện Hàn lâm, các ban chức năng và sự hợp tác, hỗ trợ giúp đỡ của chi ủy, tập thể lãnh đạo, cùng toàn thể cán bộ công chức, viên chức, người lao động trong Viện và Tạp chí để đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao hơn nữa vị thế của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới và vị thế tạp chí đầu ngành về lĩnh vực gia đình, giới và phụ nữ ở Việt Nam của Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới. Tại buổi lễ, PGS.TS. Trần Thị Minh Thi đã nhận được những lời chúc mừng từ Đảng ủy, Lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, lãnh đạo Ban Tổ chức Cán bộ và tập thể cán bộ công chức, viên chức, người lao động, các tổ chức đoàn thể chính trị của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới.

Hội nghị Tổng kết công tác năm 2018 và phương hướng nhiệm vụ năm 2019 của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới

Tác giả: Trần Thị Hồng

Trang: 87-88

Sáng ngày 18/12/2018, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đã tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm 2019 với sự chủ trì của PGS.TS. Trần Thị Minh Thi – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới và GS.TS. Nguyễn Hữu Minh – Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới. Tham dự hội nghị có đại diện văn phòng và các ban chức năng của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cùng đầy đủ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới. PGS.TS. Trần Thị Minh Thi trình bày báo cáo tổng kết các hoạt động của Viện năm 2018 - năm mở đầu cho một nhiệm kỳ lãnh đạo mới của Viện với việc kiện toàn vị trí Viện trưởng vào tháng 11 năm 2017. Về hoạt động tổ chức bộ máy, Viện đã thực hiện nghiêm túc việc kiện toàn, sắp xếp đội ngũ cán bộ cho các phòng trên năng lực làm việc, nhu cầu của viện và nguyện vọng cán bộ. Về nghiên cứu khoa học, Viện đã triển khai rất thành công cả về thời gian và nội dung, chất lượng chuyên môn các loại hình đề tài, bao gồm đề tài hợp tác quốc tế, đề tài nhà nước, đề tài NAFOSTED, các đề tài thuộc “Chương trình Nghiên cứu, đánh giá tổng thể về gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”, các đề tài cấp Bộ độc lập và hệ đề tài cơ sở. Kết quả điển hình là đề tài “Hạnh phúc của người Việt Nam: Quan niệm, thực trạng và chỉ số đánh giá” do PGS.TS Lê Ngọc Văn chủ nhiệm đã nghiệm thu cấp Nhà nước đạt loại xuất sắc.Về hoạt động tư vấn chính sách, Viện đã tham gia góp ý nhiều kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội các bản đề án, chương trình liên quan đến lĩnh vực gia đình và giới của các bộ, ngành trung ương.Về hợp tác quốc tế, Viện duy trì và mở rộng các mạng lưới hợp tác thông qua các hoạt động nghiên cứu, viết sách, tham gia hội thảo quốc tế, ký các văn bản ghi nhớ, v.v. Về xuất bản, các cán bộ của Viện đã xuất bản 4 bài báo và chương sách quốc tế, 50 bài báo khoa học trong nước, cùng nhiều báo cáo in kỷ yếu tại các hội thảo quốc tế và trong nước. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới cũng đã vinh dự nhận bằng khen của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về hoạt động có hiệu quả trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Các kết quả công tác của Viện nhận được sự đánh giá cao của cán bộ trong Viện và các đại biểu tham dự. Các ý kiến thảo luận đã đề cập đến những thuận lợi của Viện trong năm qua như sự kế thừa những thành tựu đã đạt được trong những năm trước, sự nỗ lực của lãnh đạo Viện, của mỗi cán bộ trong nghiên cứu và mở rộng cơ hội hợp tác; sự hỗ trợ, trao cơ hội cho cán bộ thông qua các hoạt động đào tạo, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm nghiên cứu. Các ý kiến cũng nêu một số thách thức về nâng cao năng lực nghiên cứu, năng lực ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Tại Hội nghị, ông Đỗ Hữu Phương - Phó chánh Văn phòng Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, thay mặt đoàn đại biểu của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã chúc mừng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới với những thành tích nổi bật như đề tài cấp nhà nước đã hoàn thành xuất sắc, số lượng bài viết của cán bộ Viện được công bố trên các tạp chí trong nước và quốc tế năm 2018 tăng. Ông Đỗ Tuấn Thành - Ban Tổ chức cán bộ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đánh giá cao sự phối hợp của Viện trong các hoạt động liên quan đến tổ chức, cán bộ và tiếp nhận những khuyến nghị của Viện về hoạt động quản lý thông tin và bổ sung đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao cho Viện. Năm 2019, kế tiếp những thành tựu đã đạt được, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới tiếp tục triển khai các nghiên cứu cơ bản những vấn đề lý luận và thực tiễn về gia đình và giới nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tham gia chủ động và tích cực vào hoạt động tổng kết, hoạch định chính sách về gia đình và giới và tiếp tục đẩy mạnh hoạt động hợp tác, xuất bản và chia sẻ kết quả nghiên cứu.

Nghiệm thu hệ Đề tài cấp Cơ sở năm 2018 của Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới

Tác giả: Việt Phương

Trang: 84-86

Năm 2018, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới triển khai hệ đề tài cơ sở về “Lịch sử gia đình nông thôn Việt Nam giai đoạn 1976-1986”. Đây là hệ đề tài thuộc hướng nghiên cứu về lịch sử gia đình Việt Nam, tiếp nối hệ đề tài về “Lịch sử gia đình nông thôn Việt Nam giai đoạn 1960-1975” đã thực hiện năm 2017. Nhiệm vụ chung của các đề tài là nhằm nhận diện những đặc điểm và khuôn mẫu hôn nhân-gia đình đồng bằng sông Hồng trong một giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước, tập trung ở một số chủ đề: lựa chọn bạn đời; tổ chức cuộc sống những năm đầu sau kết hôn; phân công lao động giữa vợ và chồng; quyền quyết định giữa vợ và chồng; một số khía cạnh của đời sống tâm lý tình cảm vợ chồng trong gia đình nông thôn miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1976-1986. Hệ đề tài được triển khai thực địa tại Nam Định và Thái Bình, với lượng mẫu là 400 người kết hôn trong giai đoạn 1976-1986 tại mỗi địa bàn. Trong khuôn khổ các hoạt động khoa học năm 2018, ngày 28 và 29/11/2018, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới đã tổ chức nghiệm thu 10 đề tài cơ sở được thực hiện năm 2018 trong hệ đề tài về lịch sử gia đình Việt Nam. Thành viên Hội đồng nghiệm thu gồm các nhà khoa học, các chuyên gia về lĩnh vực gia đình và giới trong và ngoài Viện. 1. Đề tài “Quyền quyết định giữa vợ và chồng trong gia đình nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do Th.S. Vũ Thị Cúc làm chủ nhiệm cho thấy trong giai đoạn 1976-1986, mô hình quyền quyết định của vợ và chồng trong 5 năm đầu kết hôn có xu hướng quay trở lại với khuôn mẫu truyền thống đề cao vai trò của người đàn ông trong gia đình. So sánh với phát hiện nghiên cứu của thời kỳ trước (1960-1975), kết quả đề tài cho thấy có sự khác biệt nhất định khi vai trò quyết định chính là của người cha, người chồng trong gia đình chứ không còn của người vợ. 2. Đề tài “Việc lựa chọn bạn đời ở nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do Th.S. Nguyễn Hà Đông làm chủ nhiệm đã chỉ ra rằng, khuôn mẫu hôn nhân ở nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986 tiếp tục theo xu hướng chuyển dịch từ hôn nhân do cha mẹ, gia đình sắp đặt sang mô hình hôn nhân tự nguyện. Việc lựa chọn bạn đời trong giai đoạn 1976-1986 cũng có khuynh hướng cá nhân rõ rệt hơn khi hướng tới thỏa mãn nhu cầu của cá nhân hơn là đáp ứng nhu cầu của gia đình. Đề tài được hội đồng nghiệm thu đánh giá xuất sắc bởi kỹ thuật phân tích bài bản và hàm lượng thông tin phong phú.. 3. Đề tài “Đời sống tâm lý-tình cảm giữa vợ và chồng trong gia đình nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do Th.S. Bùi Thị Hương Trầm làm chủ nhiệm đã mô tả về những khó khăn trong cuộc sống vợ chồng 5 năm đầu kết hôn, những cách thức vượt qua khó khăn và những cách thức thể hiện sự gắn kết. Khó khăn về kinh tế là phổ biến đối với các gia đình trong 5 năm đầu sau kết hôn vào giai đoạn 1976-1986. Kết quả phân tích còn chỉ ra rằng quan niệm xã hội và bối cảnh sống thời kỳ này được phản ánh qua những tương tác giữa vợ và chồng. 4. Đề tài “Sự trợ giúp lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình mở rộng ở nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do CN. Phan Thị Thanh Mai làm chủ nhiệm đã cung cấp những nét khái quát về sự trợ giúp trong gia đình mở rộng, dòng họ ở nông thôn giai đoạn này. Kết quả cho thấy trong bối cảnh đất nước còn nghèo, nền kinh tế còn bao cấp nên hầu như ít có sự giúp đỡ về vật chất giữa các thành viên trong gia đình, họ hàng. Sự hỗ trợ chủ yếu được thể hiện ở việc giúp công trong hoạt động sản xuất nông nghiệp hay trong quá trình xây sửa nhà cửa. Bên cạnh đó, những trợ giúp về tinh thần là hình thức khá điển hình của các thành viên trong gia đình mở rộng ở giai đoạn này. 5. Đề tài “Mối quan hệ anh chị em ruột trong gia đình nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do Th.S. Nguyễn Thị Hồng Hạnh làm chủ nhiệm đã mô tả cụ thể về mối quan hệ giữa anh chị em ruột trong gia đình ở một số chiều cạnh như gặp gỡ, hỗ trợ làm ăn, hỗ trợ xây sửa nhà cửa và hỗ trợ trong chăm sóc con cái. Kết quả phân tích cho thấy, bối cảnh kinh tế xã hội khó khăn thời kỳ này đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến sự trợ giúp của anh chị em ruột trong gia đình. Hỗ trợ của anh chị em trong gia đình thiên về sức người hơn sức của đối với hầu hết các công việc trợ giúp. 6. Đề tài “Sự tham gia của người phụ nữ trong các hoạt động cộng đồng ở nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do Th.S. Nguyễn Đức Tuyến làm chủ nhiệm đã cho thấy góc nhìn đa chiều về sự tham gia của phụ nữ trong hoạt động cộng đồng ở nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986 dưới tác động của các yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình, yếu tố xã hội. Trong giai đoạn này, tỷ lệ phụ nữ tham gia các hoạt động cộng đồng tương đương so với nam giới, tuy nhiên, tỷ lệ giữ các chức vụ và mức độ tham gia của phụ nữ thấp hơn so với nam giới. 7. Đề tài “Tổ chức cuộc sống những năm đầu sau kết hôn trong gia đình nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do Th.S. Lê Thị Hồng Hải làm chủ nhiệm đã một lần nữa xác nhận ở nhà chồng sau kết hôn là mô hình cư trú phổ biến ở nông thôn đồng bằng sông Hồng Việt Nam. Việc quyết định lựa chọn mô hình cư trú phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế, số lượng nhân khẩu của gia đình... 8. Đề tài “Phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do Th.S. Trần Thị Thanh Loan làm chủ nhiệm cho thấy, sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình nông thôn miền Bắc ở giai đoạn 1976-1986 đã có sự thay đổi so với giai đoạn 1960-1975 nhưng sự thay đổi diễn ra tương đối chậm. Điều này là do bối cảnh xã hội có tác động mạnh mẽ khi người đàn ông trở về gia đình sau chiến tranh lại tiếp tục tham gia các công việc ngoài gia đình, các công việc đại diện cho gia đình. Khuôn mẫu giới vẫn thể hiện rõ nét và có ảnh hưởng đến phân công lao động trong gia đình ở giai đoạn này. Đề tài đã được hội đồng nghiệm thu đánh giá xuất sắc với bố cục báo cáo chặt chẽ, nội dung phân tích sâu sắc. 9. Đề tài “Hoạt động kinh tế của hộ gia đình ở khu vực nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do Th.S. Trần Quý Long làm chủ nhiệm chỉ ra rằng, trong giai đoạn lịch sử 1976-1986, hoạt động kinh tế hộ gia đình nông thôn chủ yếu là hoạt động nông nghiệp, các hoạt động kinh tế công nghiệp khá yếu ớt. Trong thời kỳ này, kinh tế hộ gia đình là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập thể tồn tại và có những đóng góp không nhỏ vào việc phát triển nông nghiệp của đất nước. Hộ gia đình được khẳng định là đơn vị kinh tế tự chủ. Các hình thức kinh tế hợp tác không làm mất vai trò của kinh tế hộ. 10. Đề tài “Sự tham gia của hộ gia đình vào hoạt động kinh tế của hợp tác xã ở nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986” do Th.S. Phan Huyền Dân làm chủ nhiệm đã cung cấp những nét khái quát về sự tham gia vào hoạt động kinh tế hợp tác xã của hộ gia đình. Kết quả đề tài chỉ ra rằng hộ gia đình tham gia vào các hoạt động kinh tế của hợp tác xã ở các mức độ khác nhau.. Đề tài đã nêu ra những bài học kinh nghiệm về cơ chế quản lý kinh tế nói chung, và quản lý kinh tế nông thôn nói riêng. Trong đó, thực tiễn diễn ra ở cấp cơ sở, bao gồm phản ứng của người dân chính là nền tảng để hình thành tư duy, và tiếp theo là xây dựng chính sách và là những bài học mang tính kim chỉ nam cho giai đoạn Đổi mới ở Việt Nam ở giai đoạn tiếp theo. Đánh giá chung về tiến độ và kết quả của các đề tài, PGS.TS. Trần Thị Minh Thi, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, khẳng định rằng, cho dù còn có những khó khăn nhất định trong triển khai nghiên cứu, các đề tài đã đảm bảo rất tốt tiến độ đề ra. Kế hoạch triển khai xây dựng công cụ nghiên cứu, thực địa sớm ngay từ đầu năm 2018 giúp toàn bộ các đề tài có đủ thời gian, thông tin hoàn thành báo cáo cũng như các sản phẩm theo yêu cầu với chất lượng chuyên môn tốt. Các đề tài cho thấy nhiều phát hiện quan trọng và lí thú về đặc điểm hôn nhân và gia đình Việt Nam trong một thời kỳ lịch sử quan trọng của đất nước, góp phần bổ sung những khoảng trống của nghiên cứu thực nghiệm về đặc điểm hôn nhân, gia đình và các mối quan hệ giữa gia đình với cộng đổng, đoàn thể, chính quyền trong xã hội nông thôn miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1976-1986. Dựa trên các kết quả nghiên cứu về lịch sử gia đình nông thôn Việt Nam thời kỳ 1960-1975 và 1976-1986, Viện sẽ có những kế hoạch để biên soạn và xuất bản sách trong thời gian tới.

Bảo vệ trẻ em bị bạo hành: So sánh các quy định pháp luật của Việt Nam và Ôxtrâylia

Tác giả: Đỗ Lan Phương

Trang: 75-83

Tóm tắt: Trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật trẻ em của Việt Nam và Ôxtrâylia, bài viết này đã so sánh các quy định của Luật Trẻ em 2016 và văn bản pháp luật của Việt Nam và pháp luật bảo vệ trẻ em của Ôxtrâylia ở hai nội dung: nghĩa vụ cung cấp thông tin về bạo lực trẻ em và vai trò, trách nhiệm của người làm công tác bảo vệ trẻ em tại địa phương, từ đó đề xuất một số nội dung nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Luật trẻ em 2016 ở Việt Nam.

Vai trò của gia đình đối với bạo lực học đường trong học sinh trung học: Thực tiễn và lý thuyết

Tác giả: Trương Thị Thu Thủy

Trang: 67-74

Tóm tắt: Các nghiên cứu về gia đình và vị thành niên cho thấy vai trò của cha mẹ đối với vị thành niên đang ngày càng bị suy giảm, sự tương tác, gắn kết với gia đình của trẻ vị thành niên ngày càng lỏng lẻo, điều đó khiến trẻ có nguy cơ cao rơi vào các hành vi lệch chuẩn. Sử dụng phương pháp phân tích tài liệu sẵn có và dữ liệu định tính của đề tài cấp Bộ “Bạo lực học đường trong học sinh trung học: Một số vấn đề cần quan tâm”, bài viết phân tích khả năng tác động của gia đình đến bạo lực học đường trong học sinh trung học, và xem xét nó từ cách tiếp cận lý thuyết học hỏi xã hội về bạo lực nói chung và bạo lực học đường nói riêng. Nghiên cứu phác họa phần nào mối liên hệ nghịch chiều giữa sự ít gắn kết với cha mẹ, môi trường gia đình không lành mạnh và sự thờ ơ của cha mẹ đối với hành vi bạo lực của con cái với xu hướng sử dụng bạo lực ở học sinh trung học ngày nay. Từ đó gợi ra một số vấn đề cần quan tâm nghiên cứu về chủ đề này trong thời gian tới.

Các dịch vụ công tác xã hội với nam giới gây bạo lực nhằm giảm thiểu bạo lực gia đình trên thế giới và tại Việt Nam

Tác giả: Hoàng Tuyết Mai

Trang: 58-66

Tóm tắt: Bạo lực gia đình (BLGĐ) hiện đang là điểm nóng của nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam khi vấn nạn này ngày một gia tăng. Người gây ra BLGĐ chủ yếu là nam giới, vì vậy các hoạt động công tác xã hội (CTXH) với nam giới gây BLGĐ là một cách tiếp cận quan trọng nhằm giảm thiểu BLGĐ và được coi là một trong các giải pháp thiết thực nhất hiện nay. Các nghiên cứu đã mô tả một bức tranh toàn cảnh về các dịch vụ công tác xã hội với nam giới gây bạo lực mà các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã và đang thực hiện, từ đó so sánh, phát huy và kế thừa những dịch vụ công tác xã hội với nam giới có tính hiệu quả cao ứng dụng vào công cuộc giảm thiểu tình trạng BLGĐ tại Việt Nam. Bài viết tập trung tổng quan các dịch vụ công tác xã hội với nam giới gây bạo lực nhằm phòng chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ) trên thế giới và tại Việt Nam.

Chăm sóc sức khỏe người dân tộc thiểu số nhìn từ khía cạnh giới

Tác giả: Đặng Thị Hoa

Trang: 46-57

Tóm tắt: Chăm sóc sức khỏe là một trong những chỉ số quan trọng đánh giá chất lượng cuộc sống và cơ hội phát triển của con người. Mặc dù Việt Nam đã có khá nhiều chính sách hỗ trợ trong chăm sóc sức khỏe cho người dân tộc thiểu số nhưng phụ nữ dân tộc thiểu số vẫn nằm trong nhóm có nguy cơ bị loại trừ trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại, đặc biệt là trong chăm sóc sức khỏe sinh sản. Kết quả nghiên cứu tại tỉnh Ninh Thuận, Đắk Lắk và Sóc Trăng cho thấy có sự khác biệt rõ nét giữa nam và nữ trong mô hình bệnh tật và lựa chọn nơi khám chữa bệnh ở một số tộc người. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em vùng dân tộc thiểu số vẫn còn khá nhiều vấn đề đặt ra, là những trở ngại, thách thức không nhỏ trong chiến lược thực hiện các chỉ tiêu của mục tiêu Thiên niên kỷ về tăng trưởng toàn diện và bao trùm ở Việt Nam.

Sự lựa chọn giá trị tình yêu, hôn nhân và gia đình của thanh niên (Nghiên cứu trường hợp tỉnh An Giang)

Tác giả: Phan Thuận

Trang: 38-45

Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích sự lựa chọn và sự thay đổi trong quan niệm về giá trị tình yêu, hôn nhân và gia đình của thanh niên trong bối cảnh hiện nay và so với thời kỳ trước đây. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sự lựa chọn giá trị về tình yêu, hôn nhân và gia đình của thanh niên An Giang có xu hướng nghiêng về những giá trị hiện đại, theo lối sống đô thị và Tây hóa. Có thể nói giá trị tình yêu, hôn nhân và gia đình còn ít được chú ý trong chuỗi giá trị sống đã và sẽ cần định hướng cho thanh niên An Giang và điều đó có thể có ảnh hưởng tới quyết định của thanh niên trong việc lựa chọn bạn đời, quyết định hôn nhân và các mối quan hệ hôn nhân và gia đình trong tương lai.

Quan niệm về giá trị của hôn nhân trong giới trẻ ở đô thị hiện nay

Tác giả: Nguyễn Hồng Mai

Trang: 28-37

Tóm tắt: Trong bối cảnh kinh tế - xã hội đang biến động mạnh mẽ và toàn diện trên đất nước ta, nhiều giá trị sống – trong đó có giá trị của hôn nhân đã được đưa ra bàn luận và thay đổi thực hành. Sự thay đổi biểu hiện rõ nhất trong bộ phận cư dân là giới trẻ sống trong các đô thị. Bên cạnh việc tiếp tục noi theo chuẩn mực truyền thống coi hôn nhân là một giá trị phổ quát, một giá trị vĩnh viễn đã xuất hiện thêm những lựa chọn khác, tương hợp với sự lên ngôi của phạm trù cá nhân. Bài viết phân tích lý giải nguyên nhân của hiện tượng này.

Sự tương đồng giữa vợ và chồng trong hôn nhân ở nông thôn miền Bắc giai đoạn 1976-1986

Tác giả: Nguyễn Hà Đông

Trang: 18-27

Tóm tắt: Trong xã hội Việt Nam truyền thống, tiêu chí môn đăng hộ đối giữa hai gia đình gốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thậm chí là yếu tố đầu tiên được xem xét đến trong quyết định kết hôn. Cùng với những thay đổi trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, tầm quan trọng của tiêu chuẩn này cũng có sự biến đổi. Kết quả nghiên cứu về hôn nhân giai đoạn 1976-1986 tại Thái Bình cho thấy trong khi các dấu ấn của môn đăng hộ đối còn khá rõ nét, sự tương xứng, phù hợp giữa các đặc điểm cá nhân của các cặp vợ chồng ngày càng được coi trọng. Kết quả này cho thấy trong việc lựa chọn bạn đời giai đoạn này đang có sự giao thoa giữa các đặc điểm môn đăng hộ đối truyền thống và yếu tố mới về sự tương đồng giữa các cá nhân.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền quyết định của vợ và chồng đối với các công việc quan trọng của gia đình: Những phát hiện mới từ Điều tra Gia đình 2017

Tác giả: Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Hồng

Trang: 3-17

Tóm tắt: Vận dụng các cách tiếp cận hiện đại hóa, phân bổ nguồn lực tương đối và văn hóa và phương pháp phân tích đa biến bài viết kiểm chứng ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế-xã hội, văn hóa đến quyền quyết định của người vợ và người chồng đối với các công việc quan trọng của gia đình dựa trên số liệu khảo sát 2007 đại diện hộ gia đình ở 10 xã/phường thuộc 7 tỉnh/thành phố đại diện cho các vùng kinh tế-xã hội năm 2017 của Đề tài cấp Bộ “Xu hướng biến đổi của đặc điểm gia đình Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” thuộc Chương trình “Nghiên cứu, đánh giá tổng thể về gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”. Kết quả phân tích cho thấy, người vợ có trình độ chuyên môn cao thì làm tăng khả năng cả hai vợ chồng đều có quyền quyết định và giảm khả năng người chồng có quyền quyết định cuối cùng; Các gia đình sống ở đô thị có nhiều khả năng cả hai vợ chồng cùng có quyền quyết định hơn, nhưng giảm khả năng người chồng có quyền quyết định; Những khác biệt về vị thế kinh tế giữa vợ và chồng có vai trò quan trọng hơn các khác biệt về vị thế xã hội đối với quyền ra quyết định trong gia đình; Quan niệm truyền thống coi nam giới là người nên chịu trách nhiệm chính trong việc đưa ra các quyết định quan trọng của gia đình có ý nghĩa quan trọng trong định hướng các khuôn mẫu ra quyết định trong thực tế.