Hội thảo tập huấn ngân sách giới
Tác giả: Trần Thị Hồng
Trang: 95-96
Trong hai ngày 20-21/5/2014, tại Hà Nội đã diễn ra khóa tập huấn về ngân sách giới do Tổ chức Liên hiệp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) và Trung tâm phụ nữ trong chính trị và hành chính công thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức.
Mục tiêu của khóa tập huấn là: Xây dựng sự hiểu biết chung về ngân sách giới, sự cần thiết phải lồng ghép giới ở Việt Nam; Giúp học viên làm quen với khái niệm, phạm vi và các công cụ ngân sách giới; Học hỏi kinh nghiệm quốc tế về ngân sách giới; Xác định các điểm đầu vào thích hợp cho ngân sách giới ở Việt Nam.
Tham dự khóa tập huấn là những cán bộ có kinh nghiệm làm việc trong công tác bình đẳng giới ở các bộ ngành, các cơ quan nghiên cứu thuộc chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế.
Hội thảo được tiến hành theo phương pháp đồng tham gia, kết hợp giữa bài giảng, bài tập thảo luận và làm việc nhóm. Hội thảo được chia thành 9 phiên với những nội dung cụ thể cho từng phiên.
Phiên 1 giới thiệu chung và tóm tắt đánh giá nhu cầu của học viên với khóa học.
Phiên thứ 2 và 3 cung cấp bức tranh tổng quan về thực trạng bình đẳng giới ở Việt Nam và kỹ năng phân tích chính sách dưới góc độ giới. Học viên được nghe bài trình bày về “Một số vấn đề cơ bản về bình đẳng giới ở Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Hữu Minh, Viện trưởng Viện nghiên cứu Gia đình và Giới và bài trình bày về “Tổng quan khung phân tích dưới góc độ giới” do bà Navanita Sinha, chuyên gia của UN Women thực hiện. Với phương pháp làm việc nhóm, các học viên tiến hành phân tích các chính sách về giáo dục cho trẻ em dân tộc thiểu số, chương trình việc làm cho lao động nông thôn, dự án phát triển đường giao thông dưới góc độ giới nhằm chỉ ra rằng các chương trình, chính sách này đã đáp ứng về mặt giới hay chưa.
Các phiên thứ 4, 5, 6, 7 giới thiệu tổng quan về ngân sách giới (khái niệm, lý do phải có và phải quan tâm đến ngân sách giới), quy trình lập ngân sách giới, các điểm đầu vào chiến lược cho ngân sách giới, các công cụ thích hợp để lập ngân sách giới. Qua bài trình bày của các giảng viên, học viên được cung cấp thông tin về 5 bước thực hiện ngân sách giới, 7 công cụ thực hiện ngân sách giới và 4 giai đoạn của chu trình lập ngân sách giới. Đồng thời, học viên hiểu biết thêm kinh nghiệm của một số quốc gia (như Australia, Nam Phi, Mexico, Philippin, ấn Độ,…) về lập ngân sách giới. Mỗi quốc gia đã triển khai thực hiện ngân sách giới từ những cách tiếp cận khác nhau. Học viên cũng đã được nghe trình bày về quy trình lập, phân bổ ngân sách ở Việt Nam, vấn đề lồng ghép giới vào Kế hoạch hành động trung hạn giai đoạn 2014-2016 của ngành tài chính triển khai thực hiện Chiến lược tài chính đến năm 2020. Đây là những thông tin quan trọng để học viên tiếp tục tham gia phiên 8, 9 của Hội thảo tập huấn.
Phiên 8 và 9 của Khóa học hướng đến mục tiêu xây dựng hiểu biết về ứng dụng của ngân sách giới. Dựa trên những kiến thức đã tiếp nhận được từ các phiên trước, học viên tiếp tục làm việc nhóm về các vấn đề giới trong các lĩnh vực giáo dục, việc làm, giao thông. Sau đó, các nhóm cùng thảo luận đề xuất chỉnh sửa, bổ sung cho các chính sách về giáo dục cho trẻ em dân tộc thiểu số, chương trình việc làm cho lao động nông thôn, dự án phát triển đường giao thông đảm bảo sự đáp ứng về mặt giới.
Kết thúc khóa tập huấn, các học viên được chia theo 03 nhóm gồm nhóm bộ ngành, nhóm tổ chức quốc tế, nhóm tổ chức phi chính phủ cùng bàn thảo và đề xuất về lộ trình cho việc thực hiện ngân sách giới ở Việt Nam, những yếu tố cần thiết để thực hiện lộ trình đó (khung pháp luật/thể chế, cơ chế phối hợp, năng lực) và vai trò của từng cơ quan trong việc thực hiện ngân sách giới ở Việt Nam.
Nghiệm thu đề tài khoa học “Nghiên cứu các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay”
Tác giả: Xuân Huyến
Trang: 93-94
Ngày 11 tháng 4 năm 2014, tại Hà Nội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL) đã tổ chức nghiệm thu đề tài khoa học cấp bộ “Nghiên cứu các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài được triển khai năm 2013 do Ths. Trần Tuyết ánh, Vụ trưởng Vụ Gia đình, Bộ VHTT&DL làm chủ nhiệm đề tài. Hội đồng khoa học gồm 9 thành viên, do Thứ trưởng Bộ VHTT&DL Huỳnh Vĩnh ái làm chủ tịch Hội đồng.
Nghiên cứu này là kết quả phối hợp giữa Vụ Gia đình (cơ quan quản lý nhà nước) với Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới theo đặt hàng của Bộ trưởng Bộ VHTT&DL. Mục đích của nghiên cứu là: tìm hiểu cơ chế, chính sách liên quan hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ) và làm rõ thực trạng hoạt động PCBLGĐ ở Việt Nam hiện nay; xác định khó khăn và thuận lợi, mặt tích cực và hạn chế cùng những bài học kinh nghiệm của công tác PCBLGĐ từ khi Luật PCBGĐ có hiệu lực cho đến nay ở 2 khía cạnh chính sách và thực tiễn; và tổng kết các chương trình/hoạt động can thiệp, các mô hình phòng ngừa và khắc phục BLGĐ; và cuối cùng là đề xuất giải pháp PCBLGĐ ở Việt Nam hiện nay.
Về phương pháp nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp phân tích tài liệu sẵn có, khảo sát thực địa và tham vấn chuyên gia. Nhóm nghiên cứu đã phân tích các kết quả nghiên cứu về bạo lực gia đình và chính sách phòng, chống bạo lực gia đình ở một số nước và Việt Nam trong thời gian gần đây, các báo cáo công tác gia đình hàng năm và báo cáo 5 năm triển khai, thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia đình của các địa phương và Ban, Bộ, ngành Trung ương. Ngoài ra, đề tài lựa chọn 2 tỉnh là Bắc Ninh và Hòa Bình để tiến hành điều tra xã hội học nhằm có những thông tin thực địa bổ sung về hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình. Đây là hai tỉnh được quan tâm triển khai nhiều mô hình phòng, chống bạo lực gia đình từ phía nhà nước và tổ chức xã hội nhưng số lượng các vụ bạo lực gia đình được báo cáo lại theo 2 xu hướng trái ngược nhau, các vụ bạo lực ở Bắc Ninh có sự giảm dần còn ở Hòa Bình lại tăng dần qua các năm.
Những đóng góp cụ thể của đề tài này đó là:
Nghiên cứu đã góp phần hệ thống và thao tác hóa các khái niệm liên quan, còn ít được sử dụng trong các công trình nghiên cứu như khái niệm quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình, khái niệm giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình.
Nghiên cứu đã cung cấp cho người đọc cái nhìn hệ thống về các kết quả nghiên cứu, các chính sách về phòng, chống bạo lực gia đình của các nước và ở Việt Nam.
Điểm nổi bật của nghiên cứu này là đã tập trung vào phân tích 4 nhóm giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình tại Việt Nam hiện nay, đó là nhóm giải pháp về chính sách, pháp luật; nhóm giải pháp về phòng, ngừa; nhóm giải pháp về can thiệp, hỗ trợ và nhóm giải pháp về xử lý vi phạm. Qua đó, nghiên cứu đã chỉ ra những điểm còn hạn chế của từng nhóm giải pháp.
Kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra một số điểm đáng lưu ý, đó là:
Hệ thống các văn bản gồm Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành trong quá trình triển khai đã bộc lộ những hạn chế và đã ít nhiều gây cản trở đến hiệu quả của việc thực thi pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật và văn bản hướng dẫn là cấp thiết.
Việc triển khai giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình còn thiếu đồng bộ, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan với nhau.
Các mô hình phòng, chống bạo lực gia đình do nhà nước hay tổ chức phi chính phủ thực hiện phát huy hiệu quả tốt trong thời gian thí điểm nhưng không duy trì được khi chuyển giao cho cộng đồng quản lý. Tại địa bàn nghiên cứu, mô hình phòng, chống bạo lực gia đình chỉ còn trên số liệu báo cáo, thực tế không còn hoạt động, nếu có thì cũng lồng ghép vào nội dung liên quan.
Hệ thống báo cáo thống kê về bạo lực gia đình ở Việt Nam có độ tin cậy chưa cao do chưa có hướng dẫn rõ ràng, chưa có cán bộ và không có kinh phí thực hiện.
Hình thức bạo lực gia đình phổ biến nhất hiện nay là bạo lực tinh thần. Nếu xét trên khía cạnh tổng thể thì đối tượng bị bạo lực gia đình nhiều nhất là trẻ em, nói cách khác trẻ em là nạn nhân chính của bạo lực gia đình.
Đội ngũ tư vấn viên, hòa giải viên ở cộng đồng hạn chế về nghiệp vụ, kỹ năng tư vấn, hòa giải nên việc tư vấn, hòa giải chưa phát huy tác dụng.
Trên cơ sở xem xét, đánh giá theo các tiêu chí cụ thể đối với đề tài nghiên cứu khoa học, đề tài “Nghiên cứu các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” đã được Hội đồng nghiệm thu đánh giá là công trình khoa học có giá trị cao trong lĩnh vực nghiên cứu, đánh giá các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam cho đến thời điểm hiện nay với kết quả nghiên cứu đạt loại xuất sắc. Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu, Thứ trưởng Huỳnh Vĩnh ái đã giao Vụ Gia đình, Bộ VHTT&DL tiếp nhận kết quả từ nhóm nghiên cứu và biên soạn thành sách tham khảo phục vụ cho công tác quản lý, điều hành và nghiên cứu, học tập.
Luật pháp, chính sách phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới của một số nước trên thế giới
Tác giả: C.N.
Trang: 91-92
Văn bản quốc tế quan trọng để giải quyết vấn đề bạo lực trên cơ sở giới là Tuyên bố Xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua năm 1993. Về mặt pháp lý, trong thời gian qua, rất nhiều nỗ lực cải cách luật pháp đã được thực hiện trên thế giới để giải quyết vấn đề bạo lực trên cơ sở giới. Rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đã sửa đổi hoặc ban hành những quy định pháp luật về bạo lực đối với phụ nữ.
ở Châu Mỹ, 29 quốc gia và vùng lãnh thổ đã ban hành luật pháp về bạo lực đối với phụ nữ, phần lớn trong giai đoạn 2000-2012. Puerto Rico là quốc gia đầu tiên ban hành luật phòng chống bạo lực đối với phụ nữ bằng việc thông qua đạo luật Phòng chống và can thiệp đối với bạo lực gia đình năm 1989. Các nước châu Mỹ La tinh và Carribe dẫn đầu trong việc thúc đẩy xây dựng và thông qua các văn bản pháp luật về bạo lực đối với phụ nữ. Chính phủ Costa Rica thực hiện Kế hoạch hành động Quốc gia 2009 về bạo lực đối với phụ nữ. Mexico thông qua Luật về Tiếp cận của Phụ nữ với cuộc sống không có bạo lực năm 2007; Venezuela thông qua Luật về Quyền của phụ nữ được sống không bạo lực năm 2006; Brazil thông qua Luật Bạo lực gia đình năm 2006… Năm 2010, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật quốc tế về bạo lực đối với phụ nữ (International Violence Against Women - IVAWA), lần đầu tiên coi giải quyết bạo lực đối với phụ nữ là một ưu tiên của chính phủ Mỹ và đưa vấn đề này vào các chiến lược can thiệp.
ở Châu Âu, trong số 17 quốc gia và vùng lãnh thổ có luật pháp phòng chống bạo lực đối với phụ nữ, Ukraine là quốc gia đầu tiên ban hành Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2001. Tây Ban Nha có Luật về Các biện pháp bảo vệ chống lại bạo lực giới năm 2004.
Châu á có 23 quốc gia đã xây dựng và ban hành luật pháp phòng chống bạo lực đối với phụ nữ, chủ yếu trong giai đoạn 1994-2012 và Malaysia là quốc gia đầu tiên ban hành Luật Bạo lực gia đình năm 1994. ở Trung Quốc, thuật ngữ cấm bạo lực gia đình được viết trong nhiều luật như Luật Hôn nhân sửa đổi, Luật Bảo vệ Quyền và Lợi ích của Phụ nữ, và những văn bản luật khác. Một nền tảng chính sách về ngăn ngừa quấy rối tình dục nơi làm việc đã được đề xuất. Chính sách an toàn tại trường học nhằm ngăn ngừa lạm dụng tình dục các em gái ở trường học cũng đang được xây dựng. Trung Quốc đã xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia chống buôn bán phụ nữ và trẻ em gái giai đoạn 2008-2012.
Châu Phi có 10 quốc gia và Châu Đại Dương có 1 quốc gia đã ban hành luật pháp về bạo lực đối với phụ nữ. Năm 2011, Quốc hội Zambia đã thông qua Luật Chống bạo lực trên cơ sở giới sau những đề xuất về luật pháp nhằm giải quyết vấn đề bạo lực trên cơ sở giới.
Trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có luật về bạo lực đối với phụ nữ được đề cập trong một phân tích của hai tác giả Gaby Ortiz-Barreda và Carmen Vives-Cases (2013) có 60 quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng thuật ngữ “bạo lực gia đình” trong tiêu đề của luật (cụ thể về thuật ngữ tiếng Anh có 51 trường hợp sử dụng “domestic violence”, 8 trường hợp sử dụng “family violence” và 1 trường hợp sử dụng “intra-family violence”); 14 quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng thuật ngữ “bạo lực đối với phụ nữ” (violence against women); và chỉ có 2 quốc gia sử dụng thuật ngữ bạo lực giới (gender violence). Có 4 quốc gia sử dụng thuật ngữ khác.
Trong số 51 quốc gia sử dụng thuật ngữ tiếng Anh “domestic violence” thì có 44 quốc gia coi “gia đình” (the family) là đối tượng được bảo vệ, tức là người phụ nữ không được đề cập một cách rõ ràng là đối tượng của bạo lực. Chỉ có 2 quốc gia coi người phụ nữ là đối tượng hưởng lợi của luật. Trong số 14 quốc gia sử dụng thuật ngữ “bạo lực đối với phụ nữ” thì có 9 quốc gia xác định người phụ nữ là đối tượng bảo vệ trực tiếp của luật.
Có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ trong tổng số 80 quốc gia thuộc nghiên cứu này có đề cập đến định nghĩa về các loại hình bạo lực đối với phụ nữ trong luật. Cụ thể: 28 quốc gia đưa ra 4 hình thức bạo lực (bạo lực kinh tế, thể chất, tâm lý và tình dục); 6 quốc gia đưa ra 3 hình thức bạo lực (bạo lực thể chất, tâm lý, tình dục); 2 quốc gia đưa ra 2 hình thức bạo lực (bạo lực thể chất và tinh thần); 3 quốc gia đưa ra chỉ 1 hình thức bạo lực (bạo lực tinh thần). Các quốc gia như Argentina, Brazil, Colombia, Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras, Mexico, Mozambique, Nicaragua, Cộng hoà Moldova, Uruguay, Venezuela đưa ra định nghĩa về các hình thức bạo lực khác như giết hại phụ nữ (femicide), bạo lực về thể chế (institutional); phân biệt đối xử với phụ nữ (misogyny).
Trong tất cả các khu vực thì luật pháp về bạo lực đối với phụ nữ đều nhấn mạnh đến vai trò của hệ thống thi hành pháp luật, dịch vụ xã hội và công an/cảnh sát. Chỉ có 28 quốc gia có đề cập đến vai trò của lĩnh vực y tế trong luật. Giáo dục và phương tiện truyền thông đại chúng ít được các quốc gia đưa vào luật pháp về các biện pháp can thiệp đối với bạo lực đối với phụ nữ. ở Châu Mỹ, luật pháp của các quốc gia như Argentina, Brazil, Colombia, Mexico, Venezuela và El Salvado đều có đề cập đến cả 6 lĩnh vực nói trên trong khi Bolivia, Chile, Nicaragua, và Mỹ đề cập đến vai trò của cảnh sát và hệ thống thi hành pháp luật. ở Châu Âu, chỉ có Tây Ban Nha có đề cập đến sự tham gia của cả 6 lĩnh vực trong khi ở Châu á, luật pháp về phòng chống bạo lực đối với phụ nữ chủ yếu nhấn mạnh đến vai trò của cảnh sát và hệ thống thi hành pháp luật và đề cập rất ít đến dịch vụ xã hội, y tế và giáo dục. Philippines là quốc gia duy nhất ở Châu á có nhấn mạnh đến vai trò của cả 6 lĩnh vực.
Mặc dù nhiều quốc gia đã phê chuẩn và ký các công ước của Liên hợp quốc về xây dựng và thực hiện luật về bạo lực đối với phụ nữ nhưng các bộ luật này dường như vẫn còn hạn chế về nội dung và việc thực thi vì quyền và lợi ích hợp pháp và cơ bản của người phụ nữ.
Tài liệu trích dẫn
Gaby Ortiz-Barreda, & Carmen Vives-Cases. 2013. Legislation on violence against women: Overview of key components. Revista Panamericana de Salud Publica, 33, pp.61-72.
Điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2012: Các kết quả chính
Tác giả: Võ Kim Hương (giới thiệu)
Trang: 83-90
File toàn văn đính kèm: Tải về
Từ năm 1986, sau gần 30 năm thực hiện “đổi mới”, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế xã hội; đồng thời công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã có sự chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành quả quan trọng. Các quyền của trẻ em ngày càng được đảm bảo. Tuy nhiên, trên thực tế, số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có trẻ em phải lao động sớm có xu hướng tăng. Để có được cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động trẻ em (LĐTE), góp phần thực hiện mục tiêu toàn cầu về xóa bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất vào năm 2016, được sự hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thông qua Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em (IPEC), năm 2012 Tổng cục Thống kê (GSO) đã tiến hành cuộc điều tra toàn quốc về LĐTE. Việc cho ra đời cơ sở dữ liệu quốc gia đầu tiên về LĐTE thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống LĐTE, đặc biệt là hình thức LĐTE tồi tệ nhất.
Tòa soạn xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc Báo cáo “Điều tra quốc gia về Lao động trẻ em 2012 - Các kết quả chính” - báo cáo đầu tiên về vấn đề LĐTE tại Việt Nam.
Ý thức trách nhiệm của thanh niên qua thực tế công tác Đoàn tại Đà Nẵng
Tác giả: Trương Diệu Hải An
Trang: 77-82
Bài viết thông tin tới bạn đọc kết quả một cuộc khảo sát về nhận thức của thanh niên thành phố Đà Nẵng năm 2012 với mục đích nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của đoàn viên thanh niên nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của họ đối với bản thân, gia đình và xã hội. Kết quả khảo sát cho thấy một số đoàn viên thanh niên chưa hiểu rõ mục tiêu, lý tưởng của Đảng và Đoàn, vẫn còn thờ ơ trước các hoạt động xã hội, sống thiếu trách nhiệm với bản thân. Song phần lớn đoàn viên thanh niên đã có ý thức hơn về vai trò của mình đối với tổ chức Đoàn, với các hoạt động xã hội, đền ơn đáp nghĩa... thể hiện trách nhiệm của bản thân, muốn cống hiến sức mình vào sự nghiệp kinh tế, chính trị, xã hội nước nhà.
Một số thách thức đối với vấn đề giáo dục, bảo vệ trẻ em trong gia đình Việt Nam hiện nay
Tác giả: Nguyễn Đức Mạnh
Trang: 71-76
File toàn văn đính kèm: Tải về
Bài viết bàn về một số thách thức đối với vấn đề giáo dục, bảo vệ trẻ em trong gia đình Việt Nam hiện nay, cụ thể là những thách thức trong việc duy trì được vị trí, vai trò của gia đình trong việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong bối cảnh biến đổi xã hội mạnh mẽ; trong việc cha, mẹ vượt qua được tham vọng của bản thân, lấy tương lai của trẻ em làm mục tiêu, coi trẻ em là trung tâm của sự chăm sóc, giáo dục và bảo vệ; chấp nhận các phương pháp, kỹ năng giáo dục trẻ phù hợp với thời đại mới; cũng như lựa chọn, ưu tiên những phương pháp, nội dung chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ phù hợp.
Người phụ nữ Cơ-ho trong đời sống gia đình hiện nay (Nghiên cứu trường hợp xã Ka Đơn, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng)
Tác giả: Phạm Văn Hóa
Trang: 62-70
File toàn văn đính kèm: Tải về
Dựa trên kết quả một nghiên cứu nhỏ năm 2011-2012, bài viết bước đầu tìm hiểu một số biến đổi vai trò của phụ nữ Cơ-ho trong đời sống gia đình ở xã Ka Đơn, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng hiện nay. Kết quả khảo sát cho thấy trên 70% khối lượng công việc nội trợ và chăm sóc gia đình ở các hộ người Cơ-ho ở Ka Đơn vẫn do phụ nữ là người làm chính. Sự bình đẳng nam nữ trong gia đình Cơ-ho thể hiện nổi bật trong việc giáo dục con cái, kế hoạch hóa gia đình. Trong công việc sản xuất kinh doanh và quản lý tài sản, đàn ông Cơ-ho hiện nay đang từng bước đồng hành cùng với vợ trong các quyết định, xuất hiện xu thế quyền quyết định và thực hiện các công việc thuộc cả hai vợ chồng. Có sự giao thoa giữa mẫu hệ và phụ quyền, rõ nhất là trong việc cưới hỏi. Riêng trong việc gặp gỡ làm quen và quyết định kết hôn hiện nay, nhà gái không còn hoàn toàn chủ động trong việc bắt chồng; vai trò của cha mẹ, dòng họ giảm dần hướng đến tự chủ cá nhân, con cái tự quyết định.
Lồng ghép giới trong chương trình giảng dạy ở bậc đại học - Kinh nghiệm từ trường Đại học Quảng Nam
Tác giả: Phạm Thu Hiền & Trương Quang Hồng
Trang: 50-61
File toàn văn đính kèm: Tải về
Qua phân tích kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam về lồng ghép giới trong chương trình giảng dạy ở bậc đại học, bài viết đã đưa ra các thực hành tốt về lồng ghép giới trong chương trình giảng dạy, xác định các cản trở trong quá trình thực hiện và cung cấp các luận chứng về việc cần thiết phải thực hiện lồng ghép giới trong chương trình giảng dạy ở bậc đại học. Bài học về lồng ghép giới trong chương trình giảng dạy ở Đại học Quảng Nam cho thấy, việc triển khai phải tuân thủ một tiến trình sáu bước khép kín, bao gồm: (i) tập huấn cơ bản, (ii) tập huấn chuyên sâu, (iii) hội thảo xây dựng bài giảng, (iv) xây dựng bài giảng, (v) giảng thử và (vi) chính thức hóa. Theo tác giả, việc nâng cao năng lực và đảm bảo “tính sở hữu”của bài giảng; việc đổi mới và nâng cao kỹ năng giảng dạy với sự tham gia tích cực của sinh viên; sự cam kết của lãnh đạo và thể chế hóa là các yếu tố làm nên sự thành công và tính bền vững của chương trình lồng ghép giới.
Bạo lực trên cơ sở giới: Một số khía cạnh về luật pháp và chính sách ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Hồng, Trần Thị Cẩm Nhung
Trang: 34-49
File toàn văn đính kèm: Tải về
Nhằm nhận diện rõ hơn về luật pháp và chính sách của Việt Nam đối với việc phòng, chống bạo lực trên cơ sở giới, bài viết tập trung xem xét các khái niệm có liên quan đến bạo lực giới, nội dung, phạm vi của các chính sách hiện có ở Việt Nam liên quan đến các dạng bạo lực trên cơ sở giới như bạo lực giới trong phạm vi gia đình, bạo lực giới trong cộng đồng (buôn bán phụ nữ, trẻ em, mại dâm, quấy rối tình dục). Trên quan điểm nghiêm cấm các hành vi bạo lực trên cơ sở giới, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng hành lang pháp lý quy định, xử lý các hành vi là biểu hiện của bạo lực trên cơ sở giới. Tuy nhiên, vẫn còn có những khoảng trống nhất định trong hệ thống luật pháp, chính sách hiện có. Còn thiếu định nghĩa cụ thể, rõ ràng về bạo lực trên cơ sở giới cũng như những qui định chi tiết về các biểu hiện cụ thể của bạo lực trên cơ sở giới. Bên cạnh đó, vấn đề kinh phí, phối hợp, giám sát, hệ thống dữ liệu về bạo lực giới cũng là những vấn đề cần quan tâm trong việc thực thi chính sách.
Cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm ở Hà Nội: Từ mô hình gia đình đến mô hình công ty
Tác giả: Nguyễn Ngọc Anh
Trang: 20-33
File toàn văn đính kèm: Tải về
Ở các làng nghề Việt Nam hiện nay, bên cạnh cấu trúc xã hội nghề nghiệp đặc trưng cho xã hội nông nghiệp truyền thống đã xuất hiện những mô hình cấu trúc xã hội - nghề nghiệp hiện đại. Vận dụng cách tiếp cận lý thuyết cấu trúc hóa của Anthony Giddens, bài viết tìm hiểu cấu trúc xã hội nghề nghiệp ở một làng nghề về đồ gỗ trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có sự biến đổi như thế nào về cả nguồn lực và các quy tắc hoạt động dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình gia đình làm nghề hiện rất phổ biến và đang tạo ra nhiều việc làm cho lao động ở nông thôn. Các làng nghề đã xuất hiện mô hình công ty nghề và hoạt động theo hướng kết hợp giữa các thế mạnh của mô hình gia đình và các lợi thế công ty. Và vì vậy nó đã làm xuất hiện kiểu cấu trúc xã hội - nghề nghiệp hỗn hợp công ty - gia đình theo kiểu mạng lưới hợp tác, thầu phụ và mô hình gia đình - công ty. Sự phát triển của mô hình công ty nghề là tương lai của làng nghề, nhưng việc phát triển của mô hình này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có sự biến đổi cấu trúc xã hội - nghề nghiệp của các hộ gia đình nghề.
Hôn nhân cư trú bên ngoại: một giải pháp cho sự ưa thích con trai và bất bình đẳng giới ở Việt Nam?
Tác giả: Loes Schenk-Sandbergen
Trang: 3-19
File toàn văn đính kèm: Tải về
Ở Việt Nam, UNFPA và các tổ chức khác đã thực hiện nhiều hoạt động thúc đẩy hình thức hôn nhân cư trú bên ngoại nhằm cải thiện địa vị của người phụ nữ và giải quyết tình trạng mất cân bằng giới tính đang gia tăng một cách đáng báo động ở Việt Nam. Nhiều công cụ và chính sách đã được chính phủ, NGOs, các phương tiện truyền thông và các chủ thể khác triển khai nhằm thay đổi tư tưởng phụ hệ. Bài viết, bằng cách tiếp cận nhân học, tìm hiểu và phân tích truyền thống, đặc điểm và thực tiễn của chế độ mẫu hệ và hình thức hôn nhân cư trú bên ngoại tại Lào, nhằm tìm hiểu tính khả thi của giải pháp này ở Việt Nam.